Thiếu thời Julianus (hoàng đế)

Julian solidus, c. 361. The obverse shows a bearded Julian with an inscription, FL(AVIVS) CL(AVDIVS) IVLIANVS PP AVG (PP=Pater Patriae, "father of the nation"; AVG=Augustus). The reverse depicts an armed Roman soldier bearing a military standard in one hand and subduing a captive with the other, a reference to the military strength of the Roman Empire, and spells out VIRTVS EXERCITVS ROMANORVM, "the bravery/virtue of the Roman army". Under the soldier one reads SIRM indicating the coin was minted in Sirmium, the home of Constantine's family.

Flavius Claudius Julianus sinh vào tháng 5 hoặc tháng 6 năm 332 tại thủ đô Constantinopolis,[12] là con thứ ba của tổng tài Julius Constantius với bà Basilina, một người phụ nữ người gốc Hy Lạp.[13][14][15] Cả song thân của ông đều là tín đồ Ki-tô giáo. Ông bà nội của ông là Hoàng đế Tây La Mã Constantius Chlorus và người vợ thứ là Flavia Maximiana Theodora. Ông bà ngoại của ông là Julius Julianus, Pháp quan Thái thú của phương Đông dưới thời Hoàng đế Licinius từ năm 315 cho đến năm 324 và là quan Tổng tài sau năm 325.[16] Không rõ bà ngoại của Julianus có tên là gì.

Ông có ba người anh và chị khác mẹ trong số đó nhỏ nhất là Constantius Gallus, lớn hơn ông khoảng 6 tuổi. Mẹ của Julianus qua đời chỉ vài tháng sau khi sinh hạ ông. Dưới sự giám sát của Julius Constantius cha ông, ông được các bà vú giáo dưỡng. Vì Julianus còn quá non trẻ nên Hoàng gia cần rất nhiều bà vú để nuôi dưỡng ông.[17] Tuy không rõ ngày sinh của Julianus, ta biết rõ rằng ông sống êm dịu trong Hoàng cung dưới thời Constantinus I, do đó ông trở nên giàu cảm xúc. Bởi lẽ, tuy Constantinus I thường hiềm khích cha Julianus do ông này là con của bà Theodora - thứ phi của Constantius I của Constantinus I, giờ đây Hoàng đế lại trở nên ưng ái và yêu mến cha của Julianus cùng với những đứa con khác của Constantius I và Theodora. Có lẽ Constantinus I đã là một người bác tốt của Julianus. Nhưng do trong gia thất của Julius Constantius có quá nhiều thái giám và nữ nô nên bà ngoại ông đưa Julianus ra khỏi thủ đô vì sợ những người này sẽ làm hư hỏng đứa trẻ. Ông được nuôi dạy thành một người Ki-tô giáo, bởi lẽ Constantinus I là vị Hoàng đế Ki-tô giáo đầu tiên của Đế quốc La Mã. Ông hẳn là biết tiếng Latinh, nhưng ông viết tiếng Hy Lạp nhiều hơn cả. Ông không ham muốn lên nắm Đế quyền, nhưng ham thích văn hóa.[17]

Tuy nhiên, vào năm 337, mọi chuyện làm tình hình thay đổi: Constantinus I cùng con thứ là Constantius đem quân đi đánh Ba Tư. Nhưng Constantinus I lâm trọng bệnh và qua đời tại Nicomedia, làm xóa tan mọi hy vọng và lạc quan của Hoàng gia đối với Julianus. Có lẽ cha của Julianus tham gia đội Vệ binh Danh dự trong lễ quốc táng Constantinus I. Ngay sau đó, Constantius II đã ban hành luật lệ dưới danh nghĩa của phụ hoàng Constantinus I. Cha của Julianus thì hoàn toàn tránh xa chính sự và không hề muốn tranh giành quyền nối ngôi.[17][18] Để danh chính ngôn thuận ngôi Hoàng đế của mình, Constantius II đã tiến hành một cuộc thảm sát gia đình Julianus. Ông ta truyền quân giết hại nhiều con cháu của cuộc hôn nhân thứ hai của Constantius I và Theodora, trong số đó có Julius Constantius và người con trai trưởng của ông. Constantius II chỉ ân xá cho hai người anh em của mình là các đồng Hoàng đế Constantinus IIConstans I, và người con trai thứ của Julius Constantius là Gallus anh của Julianus do người này rất ốm yếu. Đến lượt Julianus, các chiến binh cũng toan tiêu diệt ông nhưng ông chỉ mới năm tuổi nên được tha, trở thành tôn thất còn sót lại của tiên hoàng Constantinus I. Ba Hoàng đế Constantius II, Constans IConstantinus II cùng nhau chia sẻ từng phần lãnh thổ của Đế quốc La Mã. Người ta không rõ là Julianus có chứng kiến tận mắt cảnh cha và anh mình bị hành quyết hay không, nhưng đây là một ký ức ghê rợn mà ông không bao giờ có thể quên được trong suốt cuộc đời mình. Ông còn quá bé để có thể hiểu được những căng thẳng chính trị diễn ra sau khi Constantinus I qua đời. Nhưng đến khi lớn lên, có lẽ Julianus đã nhận thức rằng Constantius II có thể ban quân lệnh bắt các chiến binh phải tha bổng cho cha và anh của ông, nhưng Hoàng đế đã không làm vậy.[19]

Ông và Gallus bị loại trừ khỏi đời sống chính trị và được nhận một nền giáo dục nghiêm khắc của giáo phái Aria Ki-tô giáo. Ban đầu, ông lớn lên ở Bithynia, được nuôi dưỡng bởi bà ngoại của ông, lên bảy tuổi, ông được nhận sự giám hộ của Eusebius của Nicomedia, vị giám mục bán Arian ở Nicomedia, và được dạy bởi Mardonius, một thái giám Goth. Sau khi Eusebius qua đời năm 342, cả Julianus và Gallus bị lưu đày đến lãnh địa hoàng gia của Macellum ở Cappadocia. Ở Đây Julianus đã gặp giám mục Thiên chúa giáo George của Cappadocia. Ở tuổi 18, cuộc sống lưu vong kết thúc và ông cư ngụ một thời gian ngắn ở ConstantinopolisNicomedia.[20]

Ông trở thành Người đọc kinh, một chức vụ nhỏ trong nhà thờ Thiên chúa giáo, và các ghi chép sau này của ông cho thấy một kiến thức cụ thể từ Kinh Thánh, có khả năng có được trong thời niên thiếu của ông [21].Khi Nhìn lại cuộc sống của mình trong năm 362, Julianus đã viết, trong ba mươi của đời mình - rằng ông đã trải qua hai mươi năm đầu tiên theo con đường Kitô giáo và mười hai năm theo con đường đích thực(tức là con đường của thần Mặt Trời).[22]

Constantinus II mất trong năm 340 khi ông tấn công em trai Constans. Constans tiếp đó mất vào năm 350 trong cuộc chiến chống lại kẻ cướp ngôi Magnentius. Điều này khiến Constantius II là vị hoàng đế duy nhất còn lại. Để giúp cai trị đế quốc, trong năm 351 ông ta phong cho người anh cùng cha của Julianus, Gallus, làm Caesar của phương Đông, trong khi Constantius II tự chuyển sự chú ý về phía tây đến Magnentius, người mà ông đã đánh bại hoàn toàn vào năm đó. Trong năm 354, Gallus, người đã áp đặt một sự cai trị khủng bố trên các vùng lãnh thổ nằm dưới sự cai quản của ông, đã bị hành quyết. Julianus đã được triệu tập đến triều đình, và bị giam giữ trong một năm, vì bị nghi ngờ về âm mưu mưu phản, đầu tiên với anh trai của ông và sau đó với Claudius Silvanus; ông đã được thả sau đó, một phần vì Hoàng hậu Eusebia can thiệp thay mặt cho ông, và ông đã được phái đến Athens. (Julianus thể hiện lòng biết ơn của mình với hoàng hậu Eusebia trong bài diễn văn thứ ba của ông.[23])

Caesar ở Gaul

Sau khi đối phó với các cuộc nổi loạn của Magnentius và Sylvanus, Constantius cảm thấy ông cần một đại diện thường trực ở Gaul. Năm 355, Julianus đã được triệu hồi đến diện kiến hoàng đế ở Mediolanum và vào ngày 06 tháng 11 đã được phong làm Caesar của phương Tây, kết hôn với em gái Constantius, Helena.

Chiến dịch chống lại những bộ lạc German

Trong năm356, trong suốt chiến dịch đầu tiên của mình, ông đã dẫn một đội quân đến sông Rhine, tham gia cuộc chiến với các rợ và giành lại một số thành phố đã rơi vào tay người Frank, bao gồm Colonia Agrippina (Köln). Với thành công dễ dàng của mình, ông đã rút về Gaul để trú đông, chia lực lượng của mình để bảo vệ các thị trấn khác nhau, và lựa chọn thị trấn nhỏ Senon gần Verdun để chờ đợi mùa xuân [24]. Điều này hóa ra lại là một sai lầm chiến thuật, lực lượng của ông để lại bảo vệ mình là không đủ khi một lượng lớn quân đội của người Frank bao vây thành phố và Julianus đã hầu như bị giam giữ ở đó trong vài tháng cho đến khi tướng Marcellus của ông đoái hoài đến việc giải vây. Mối quan hệ giữa Julianus và Marcellus dường như không tốt đẹp cho lắm. Constantius chấp nhận những báo cáo của Julianus và Severus đã thay Marcellus nắm giữ chức tổng chỉ huy kị binh [25][26]

Năm tiếp theo chứng kiến ​​một cuộc hành quân phối hợp được lên kế hoạch bởi Constantius để giành lại quyền kiểm soát vùng Rhine từ tay các bộ lạc Đức đã tràn qua sông sang bờ phía tây. Từ phía nam tổng chi huy quân đội của ông(Magister peditum) Barbatio đến từ Milan và tập trung các lực lượng tại Augst (gần chỗ uốn cong của sông Rhine), sau đó hướng về phía Bắc với 25.000 binh sĩ, Julianus với 13.000 binh sĩ sẽ di chuyển về phía đông từ Durocortorum (Reims). Tuy nhiên, trong khi Julianus đang hành quân, một nhóm người Laeti tấn công Lugdunum (Lyon) và Julianus đã phải trì hoãn để đối phó với họ. Điều này để cho Barbatio không được hỗ trợ và ở sâu trong lãnh thổ của người Alamanni, vì vậy ông ta cảm thấy buộc phải rút lui, theo con đường cũ của mình. Như vậy đã kết thúc cuộc hành quân phối hợp chống lại các bộ lạc Đức[27][28]

Với việc Barbatio rút lui một cách an toàn, vua Chnodomarius dẫn đầu một liên minh của người Alamanni chống lại Julianus và Severus tại của trận Argentoratum. Người La Mã đã đông hơn rất nhiều [29] và trong sức nóng của trận chiến một nhóm 600 kỵ binh bên cánh phải đã tan rã,[30] nhưng, lợi dụng trọn vẹn sự hạn chế của địa hình, người La Mã đã chiến thắng áp đảo. Kẻ thù của họ bị đánh tan và bỏ chạy hướng ra sông. Vua Chnodomarius đã bị bắt và sau đó gửi đến chỗ của Constantius tại Milan.[31][32]

Thay vì đuổi theo kẻ thù bên kia bờ sông Rhine, Julianus tiến quân theo phía bắc sông Rhine, con đường ông đã đi vào năm trước trên đường trở về để Gaul, nhưng tại cây cầu (Mainz) Moguntiacum ông đã vượt qua sông và thực hiện một cuộc cướp phá bất ngờ vào vùng lãnh thổ của người Alamanni, nơi mà các lực lượng La Mã đã không có mặt trong nhiều năm, khiến ba vị vua phải quy phục. Hành động này cho người Alamanni thấy rằng Rome một lần nữa có mặt và hoạt động trong khu vực này. Trên đường trở lại khu trú đông ở Paris, ông đối phó với một nhóm người Frank đã nắm quyền kiểm soát một số pháo đài bị bỏ rơi dọc theo sông Meuse [32][33].

Trong năm 358, Julianus đã đạt được chiến thắng trước dân Salian của người Franks ở Hạ lưu sông Rhine, định cư họ ở Toxandria trong Đế chế La Mã, phía bắc của thành phố Tongeren ngày nay, và trước dân Chamavi, những người đã bị trục xuất trở lại Hamaland.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Julianus (hoàng đế) //nla.gov.au/anbd.aut-an35799227 http://calitreview.com/764 http://www.fourthcentury.com/index.php/imperial-la... http://www.sacred-texts.com/cla/toj/index.htm http://www.seanmultimedia.com/Pie_Julian_Apostate_... http://aleph.nkp.cz/F/?func=find-c&local_base=aut&... http://traumwerk.stanford.edu/philolog/2007/03/jul... http://ccat.sas.upenn.edu/bmcr/1997/97.03.22.html http://catalogo.bne.es/uhtbin/authoritybrowse.cgi?... http://catalogue.bnf.fr/ark:/12148/cb121721673